Tập đoàn Hoá chất Việt Nam (Vinachem) vừa có văn bản Hiệp hội Phân bón Việt Nam kiến nghị sửa Luật số 71/2014/QH13 nhằm ổn định sản xuất kinh doanh trước tác động của dịch bệnh COVID-19
Theo Vinachem, hiện nay, dịch bệnh COVID-19 đã khiến các đơn vị của Vinachem gặp nhiều khó khăn trong việc chuẩn bị nguyên vật liệu, vật tư cho sản xuất, trong công tác tiêu thụ sản phẩm, tiến độ công tác sửa chữa máy móc thiết bị...
Trong thời gian qua, tập đoàn và các đơn vị của tập đoàn đã quyết liệt thực hiện nhiều giải pháp để hạn chế tối đa tác động của dịch bệnh COVID-19 đến sản xuất kinh doanh.
Tuy nhiên, hầu hết các chỉ tiêu sản xuất kinh doanh của tập đoàn trong quý I.2020 giảm mạnh so với cùng kỳ và không đạt kế hoạch đề ra, nhất là với nhóm ngành phân bón và thuốc bảo vệ thực vật: Giá trị sản xuất giảm 15,7%, doanh thu giảm 2,9%.
Trong đó các đơn vị thuộc Đề án 1468 của Chính phủ xử lý các tồn tại yếu kém của một số dự án, doanh nghiệp chậm tiến độ, kém hiệu quả thuộc ngành Công Thương ước lỗ bằng 3,4 lần so với cùng kỳ năm 2019; lợi nhuận các đơn vị không thuộc Đề án 1468 của Chính phủ giảm 40,7% so với cùng kỳ năm 2019.
Để có những giải pháp cấp bách tháo gỡ khó khăn cho sản xuất kinh doanh, bảo đảm an sinh xã hội ứng phó với dịch COVID-19, Vinachem đề nghị Hiệp hội Phân bón Việt Nam có văn bản kiến nghị Thủ tướng Chính phủ - chỉ đạo Bộ Tài chính khẩn trương báo cáo Quốc hội xem xét, tháo gỡ khó khăn cho ngành sản xuất phân bón trong nước, sửa đổi Luật số 71/2014/QH13 theo hướng đưa phân bón vào đối tượng chịu thuế giá trị gia tăng với mức thuế suất là 0% - 5%.
Việc giải quyết kiến nghị trên không đòi hỏi Nhà nước, doanh nghiệp phải bỏ tiền hỗ trợ doanh nghiệp trong thời điểm dịch COVID-19 hoành hành, mà chỉ là điều chỉnh chính sách để hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp sản xuất phân bón trong nước bình đẳng với phân bón nhập khẩu.
Bởi, khi đưa phân bón vào đối tượng chịu thuế giá trị gia tăng với mức thuế suất 0%, các sản phẩm phân bón được bán với giá trước thuế cộng với thuế giá trị gia tăng bằng 0, nghĩa là số tiền thuế giá trị gia tăng đầu ra doanh nghiệp nộp cho nhà nước bằng 0 đồng và doanh nghiệp vẫn được hoàn thuế giá trị gia tăng đầu vào, sẽ làm giảm giá thành sản xuất phân bón và có cơ hội giảm giá phân bón cho nông dân.
Trong trường hợp đưa phân bón vào đối tượng chịu thuế giá trị gia tăng với mức thuế suất 5%, là tiền thuế giá trị gia tăng đầu ra doanh nghiệp nộp cho nhà nước và doanh nghiệp vẫn được hoàn thuế giá trị gia tăng đầu vào (không làm tăng chi phí sản xuất của doanh nghiệp và không tăng giá bán phân bón cho nông dân).
Cả hai trường hợp trên thì phân bón sản xuất trong nước không phải tăng chi phí sản xuất bất hợp lý và bình đẳng trong môi trường kinh doanh với phân bón nhập khẩu.
Doanh nghiệp trong nước có môi trường phát triển lành mạnh, bình đẳng; tăng đóng góp cho ngân sách nhà nước, tăng lợi nhuận của doanh nghiệp và đảm bảo lợi ích lâu dài của nông dân; góp phần xây dựng nền kinh tế Việt Nam độc lập, tự chủ và phát triển bền vững.