Bên cạnh những yếu tố tích cực của mạng xã hội thì vấn nạn “ném đá giấu tay” và phát ngôn gây thù ghét (hate speech) cũng đang diễn ra hết sức phức tạp. TS. Phạm Hải Chung (Đồng trưởng ban Internet và Truyền thông, Chương trình nghiên cứu Internet và Xã hội - VPIS) đã có những chia sẻ về vấn đề này:
“Theo dự đoán, đến năm 2018, Việt Nam sẽ có khoảng 70% người có điện thoại thông minh. Hiện nay, tất cả những ai có điện thoại thông minh kết nối Internet thì họ đều có thể nói với thế giới rằng họ đang nghĩ cái gì. Ngày xưa nếu chửa hoang phải ít nhất 2 tháng để cả làng biết đến ăn vạ thì bây giờ thì chỉ cần một status và với một tài khoản kết bạn với ít nhất 500 người là chỉ 30 giây là cả thế giới có thể đã biết đến. Với tốc độ nhanh như vậy thì con người phải chịu những áp lực tiêu cực ngoài những điểm tích cực từ mạng xã hội là vô cùng lớn.
Cũng theo các nghiên cứu thì người Việt Nam sử dụng mạng xã hội Facebook nhiều nhất. Năm 2009, trung bình một người Việt Nam xem tivi khoảng 5 tiếng nhưng bây giờ thì lại dành 5 tiếng đó trên Internet và mạng xã hội là trên 2 tiếng. Thậm chí, một số người tham gia vào nghiên cứu 72 giờ không sử dụng Facebook thì 50% trong số đó đã “bỏ cuộc” trong khoảng 6 tiếng đầu tiên.
Nếu vào Google để tìm kiếm từ khoá “Hot girl Đà thành” thì trong 0,8 giây đã cho ra 994.000 kết quả. Đây là vụ việc nổi tiếng những năm 2013 khi một nhóm thanh niên 7 người đã lập ra một Fanpage để nói xấu và lăng mạ những nữ sinh của TP. Đà Nẵng. Bất cứ ai gửi thông tin cho admin này và được đăng lên thì đám đông không cần xác minh thông tin mà sẽ hùa theo để lăng mạ nữ sinh. Và hậu quả là một nữ sinh đã tự tử.
Hai trường hợp xuất hiện ở Việt Nam nhiều nhất là vu khống, bịa đặt thông tin và phỉ báng. Cụ thể, khoảng 81,6% người bị vu khống, bịa đặt thông tin và 86,1% người bị nói xấu, phỉ báng. Bên cạnh đó, các phát ngôn kỳ thị vùng miền tại Việt Nam khá nặng nề. Chúng ta thử tìm kiếm các phát ngôn kỳ thị vùng miền như “hoa thanh quế”, “dân bọ”, “dân Bắc Kỳ”... thì sẽ ra vô vàn các kết quả tìm kiếm.
Người sử dụng mạng xã hội ở Việt Nam mới thường chỉ biết đến biện pháp yêu cầu đối tượng gỡ bỏ thông tin chứ chưa cách tìm biết sự bảo vệ của luật pháp hoặc thông báo với những nhà cung cấp nền tảng mạng xã hội gỡ bỏ. Theo nghiên cứu của VPIS, mới chỉ có 36,1% người được hỏi biết đến biện pháp yêu cầu công ty cung cấp phần mềm gỡ bỏ và 38,2% yêu cầu các cơ quan nhà nước áp dụng các biện pháp bảo vệ.
Xã hội nên tôn trọng sự khác biệt và có văn hoá phản biện. Chúng ta không được quên tính nhân văn khi sử dụng mạng xã hội. Dù chủ đích hay không thì mỗi người cần nhận thức được hành vi và những chia sẻ của mình tác động như thế nào trên mạng xã hội. Để hạn chế “hate speech”, cần có sự kết hợp chặt chẽ hơn giữa các cơ quan quản lý nhà nước về thông tin, với các nhà cung cấp dịch vụ trên Internet, để đảm bảo các nội dung gây thù ghét được lọc nhanh hơn, chuẩn xác hơn, cũng như khiến cho các đối tượng thường xuyên đưa ra “hate speech” nhận ra đâu là điều sai trái. Bên cạnh đó, xã hội cũng cần lên tiếng để loại bỏ vấn nạn này. Quan trọng hơn nữa là cần giáo dục về ý thức về việc phát ngôn như thế nào, đặc biệt là đối với mạng xã hội khi cho chúng ta quyền được ẩn danh.
Chương trình VPIS cũng đã đề xuất xây dựng Bộ quy tắc ứng xử đối với các công ty cung cấp nền tảng mạng xã hội tại Việt Nam. Bộ quy tắc gồm 8 điểm đề xuất đối với các công ty cung cấp nền tảng mạng xã hội tại Việt Nam”.