Ngày 4.5, ThS BS. Lê Thanh Phong – Khoa Lồng ngực Mạch máu - cho biết, giữa năm 2015, Bệnh viện Đại học Y Dược TP.HCM đăng ký với Bộ Y tế thực hiện kỹ thuật điều trị suy tĩnh mạch do tắc nghẽn bằng can thiệp nội mạch. Đây là kỹ thuật lần đầu tiên thực hiện tại Việt Nam. Đến nay, có khoảng 20 người bệnh đã được điều trị theo phương pháp này cho thấy hiệu quả rõ rệt.
Trong số 20 bệnh nhân này, bà L.T.H. (sinh năm 1956, nhà ở Sóc Trăng) nhập viện trong tình trạng đau và loét chân không lành. Từ 8 năm trước, bà thường xuyên bị phù chân trái khi đứng lâu hay đi lại. Khoảng 2 năm nay, bà bị phù kèm theo nổi các tĩnh mạch ngoài da và đau chân khi đứng lâu hay đi lại. 2 tháng trước nhập viện, một vết loét ở mắt cá trong chân trái xuất hiện, gây chảy dịch và đau đớn.
Các bác sĩ khoa Lồng ngực mạch máu của Bệnh viện chẩn đoán bà bị suy tĩnh mạch giai đoạn cuối do hội chứng chèn ép tĩnh mạch chậu và điều trị sau đó bằng nong bóng và đặt stent tái thông tĩnh mạch chậu thành công. Sau mổ, tình trạng phù chân của bà giảm rõ rệt. Khoảng 10 ngày sau, vết loét lành hoàn toàn và hết đau....
BS Phong cho biết, hội chứng chèn ép tĩnh mạch chậu gặp phần lớn ở phái nữ (80%) và các triệu chứng thường khởi phát vào khoảng 20-50 tuổi. Tuy nhiên, không phải trường hợp nào cũng khởi phát thành bệnh.
Hình ảnh stent đặt trong lòng tĩnh mạch. Ảnh: BS Phong |
Trước đây hội chứng chèn ép tĩnh mạch chậu được điều trị bằng phẫu thuật. Đây là một phẫu thuật lớn, phức tạp, mất nhiều máu và gây đau đớn. Bệnh nhân phải chịu 2 đường mổ dài ở vùng bụng. Ngày nay, với sự phát triển của can thiệp nội mạch, hội chứng này có thể điều trị khỏi bằng cách nong bóng và đặt giá đỡ tĩnh mạch (stent) chỉ qua một vết đâm kim ở vùng bẹn đùi. Qua 1 vết đâm kim vào tĩnh mạch đùi, phần tĩnh mạch bị chèn ép sẽ được nong ra và sau đó được đặt stent vào lòng mạch. Khi dòng máu về tim không còn bị cản trở, các hậu quả do sự chèn ép gây ra sẽ không xuất hiện hoặc cải thiện đáng kể khi đã xảy ra. Sau mổ người bệnh có thể đi lại vài giờ sau mổ và có thể xuất viện cùng ngày.
“Tất cả các bệnh nhân đầu tiên được điều trị bằng phương pháp này đều đã hồi phục và hoàn toàn không có biến chứng, tai biến xảy ra” - BS Lê Thanh Phong khẳng định.