Quyết định thay đổi cách đánh, phương châm tác chiến
Chiến thắng của quân và dân ta ở lòng chảo Điện Biên Phủ trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp năm 1954, không phải là chiến thắng được làm nên bởi một mình Đại tướng Võ Nguyên Giáp. Sinh thời, ông cũng chưa bao giờ nhận rằng, đó là chiến thắng của riêng ông. Nhưng thực tiễn lịch sử đã cho thấy, chiến thắng này đã ghi dấu ấn tài năng của ông trong danh mục 1/10 vị danh tướng nổi tiếng nhất trên thế giới.
Qua nghiên cứu, chúng tôi thấy rằng tài năng của ông ở chiến dịch này được thể hiện ở nhiều khía cạnh như: Lên kế hoạch và tổ chức các cuộc tiến công phá chủ trương tập trung quân của H. Nava để dọn đường đến Điện Biên Phủ; ở việc chỉ đạo chuẩn bị hậu cần cho trận quyết chiến chiến lược; xác định cách đánh, phương pháp tấn công địch... Nhưng dấu ấn quan trọng của ông chính là việc quyết định phương châm tác chiến từ "đánh nhanh, thắng nhanh" thành "đánh chắc tiến chắc" ở Chiến dịch Điện Biên Phủ để đảm bảo cho chiến dịch này được toàn thắng.
Chính quyết định thay đổi phương châm tác chiến này của Đại tướng đã giúp cho trận quyết chiến chiến lược của quân và dân ta giành được thắng lợi trọn vẹn. Và Điện Biên Phủ từ một địa phương, một lòng chảo “vô danh” ở vùng rừng núi Tây Bắc đã trở thành một địa danh nổi tiếng trên bàn đàm phán ở Genève (Thụy Sĩ), trên bản đồ Việt Nam và thế giới. Quyết định thay đổi cách đánh, phương châm tác chiến không chỉ được Đại tướng tiến hành một lần ở Chiến dịch Điện Biên Phủ, mà trước đó, ông đã từng ít nhất một lần đưa ra quyết định này, đó là chiến dịch Biên giới Thu Đông năm 1950.
Vai trò quan trọng của "người anh cả" trong quân đội nhân dân Việt Nam
Hồi ký "Đường đến Điện Biên Phủ, Hồi ức" của ông viết: “Qua chuyến đi nghiên cứu thực địa Cao Bằng, tôi càng nhận thấy không thể chọn thị xã này làm điểm đột phá cho chiến dịch”. Ông phân tích thêm: “Đánh Cao Bằng sẽ khó bảo đảm nguyên tắc trận đầu phải thắng của quân đội ta. Và nếu đánh thắng, cũng khó tránh khỏi tổn thất lớn trong khi ta chỉ tiêu diệt được một bộ phận nhỏ quân địch: 2 tiểu đoàn! Mục tiêu của chiến dịch là tiêu diệt một bộ phận quan trọng sinh lực địch và giải phóng Cao Bằng. Làm cách nào để đạt được mục tiêu này? Tôi nghĩ cách mở đầu chiến dịch tốt nhất vẫn là đánh Đông Khê.
Đông Khê là cứ điểm quan trọng nối liền Thất Khê với Cao Bằng. Cứ điểm Đông Khê mặc dù được củng cố, vẫn nằm trong khả năng tiêu diệt của bộ đội ta. Mất Đông Khê, địch hoặc sẽ phải chiếm lại, hoặc sẽ phải rút khỏi Cao Bằng. Ta sẽ có điều kiện tiêu diệt sinh lực địch ngoài công sự. Nếu địch không chiếm lại Đông Khê, ta sẽ đánh tiếp Thất Khê”.
Điều này cho thấy, ông là người đã nắm rất sát và chắc thực tiễn chiến trường và khả năng của quân và dân ta, để lựa chọn mục tiêu sao cho vừa sức, đảm bảo thắng lợi.
Thắng lợi của quân và dân ta ở Chiến dịch Biên giới Thu Đông năm 1950 đã làm thay đổi cục diện của cuộc kháng chiến, và phần nào đó là dọn đường để đưa đến điểm hẹn Điện Biên Phủ. Nền tảng để đưa đến những quyết định “táo bạo”, quyết đoán đó của ông, ngoài trí tuệ của cá nhân thì còn là nhờ ở chỉ dẫn, dặn dò của Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại, nhất là quyết định thay đổi phương châm kế hoạch tác chiến ở Điện Biên Phủ.
Điều này được Đại tướng nói rõ trong cuốn "Điện Biên Phủ" rằng: “Mỗi ngày qua, tôi càng khẳng định là không thể nào đánh nhanh được. Tôi nhớ tới lời Bác dặn trước khi lên đường, và một câu trong Nghị quyết của Trung ương hồi đầu năm 1953: "Chiến trường của ta hẹp, người của ta không nhiều, nên nói chung ta chỉ có thắng chứ không được bại, vì bại thì hết vốn". Qua 8 năm kháng chiến, bộ đội ta đã trưởng thành. Nhưng vốn liếng quả chưa nhiều. Chúng ta chỉ mới có 6 đại đoàn chủ lực. Hầu hết các đại đoàn đều có mặt trong chiến dịch này!”.
Nhiệm vụ mà Chủ tịch Hồ Chí Minh giao cho ông là vô cùng nặng nề: “Trận này quan trọng, phải đánh cho thắng! Chắc thắng mới đánh, không chắc thắng, không đánh”. Quán triệt quan điểm đánh chắc thắng của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Đại tướng Võ Nguyên Giáp đã quyết định lựa chọn phương châm tác chiến để đảm bảo được thắng lợi mà ít tổn thất nhất. Điều này chẳng những đã làm nên tên tuổi của ông, mà đồng thời cũng tạo nên cơn địa chấn Điện Biên Phủ.