Hai HĐLĐ trước đó là 1 năm và 3 năm. Vừa qua, do có việc gấp, tôi nghỉ việc mà không báo trước cho Cty đủ 45 ngày, nên Cty đã ra quyết định là đơn phương chấm dứt HĐLĐ trái luật. Tôi có được hưởng trợ cấp thôi việc (TCTV) không? Nếu có, cách tính thế nào?
Văn phòng Tư vấn pháp luật Báo Lao Động trả lời:
Điều 8 Thông tư 47/2015/TT-BLĐTBXH quy định về trợ cấp thôi việc, trợ cấp mất việc làm như sau:
1. Tiền lương làm căn cứ tính TCTV hoặc trợ cấp mất việc làm là tiền lương bình quân theo HĐLĐ quy định tại khoản 1, điểm a, khoản 2 và điểm a, khoản 3 điều 4 thông tư này của 6 tháng liền kề trước khi NLĐ thôi việc hoặc mất việc làm.
2. Trường hợp NLĐ làm việc cho NSDLĐ theo nhiều HĐLĐ kế tiếp nhau theo quy định tại khoản 2 điều 22 BLLĐ, khi chấm dứt HĐLĐ cuối cùng thì thời gian làm việc để tính TCTV, trợ cấp mất việc làm là tổng thời gian NLĐ đã làm việc cho NSDLĐ theo các HĐLĐ.
Trường hợp HĐLĐ cuối cùng do NLĐ đơn phương chấm dứt trái pháp luật hoặc bị xử lý kỷ luật sa thải thì thời gian làm việc theo HĐLĐ cuối cùng không được tính TCTV. Tiền lương làm căn cứ tính TCTV hoặc trợ cấp mất việc làm là tiền lương bình quân theo khoản 1 điều này trước khi chấm dứt HĐLĐ cuối cùng.
Do bạn đơn phương chấm dứt HĐLĐ trái pháp luật đối với HĐLĐ cuối cùng, nên không được hưởng TCTV với thời gian của HĐLĐ này. Đồng thời, bạn cũng không đủ điều kiện để đăng ký hưởng trợ cấp thất nghiệp. Bạn chỉ được hưởng TCTV cho hai HĐLĐ đầu tiên là 4 năm, cứ mỗi năm ½ tháng lương. Tiền lương để tính trợ cấp là tiền lương bình quân của 6 tháng cuối cùng trước khi nghỉ việc.
Tư vấn pháp luật
Hãy liên hệ tổng đài tư vấn pháp luật miễn phí 19008088 - gọi đường dây nóng: 0979310518; 0961360559 để nhận được câu trả lời nhanh chóng, kịp thời hoặc gửi email cho chúng tôi: tuvanphapluat@laodong.com.vn hoặc đến số 6 Phạm Văn Bạch, Hà Nội và 198 Nguyễn Thị Minh Khai, P6, Q3, TPHCM để được Luật sư tư vấn trực tiếp vào các ngày thứ Ba, thứ Sáu hàng tuần.