Tôi đã trở đi trở lại thị trấn nay là thành phố cổ này không biết bao lần, riêng năm 2018 đã là ba chuyến đi. Còn nhớ gần 20 năm trước đặt chân đến Hội An ngỡ ngàng vì sự tĩnh lặng trong một tâm thế thiền. Nó không giống nhưng có một chút tương đồng với Huế “Nét dịu dàng pha lẫn trầm tư”.
Tôi ngồi cả ngày ở Hội An, lang thang nếm thử hương vị của cao lầu, mỳ Quảng, ngồi đánh cờ với ông lão đầu đường Hoàng Văn Thụ mà thấy mình như lạc vào một không gian khác nơi mà thời gian trôi rất chậm, như hơi thở dài và sâu của một cao nhân, trong từng “sát na”.
Sau này, cảm giác đó không còn lặp lại, nhất là vài năm gần đây khi phố Hội ngày càng đông đúc, nhộn nhịp hơn và trong một thoáng chốc nào đó, khái niệm “xô bồ” hiện hữu. Cái phố cổ duy nhất ở Việt Nam đã được UNESCO công nhận là Di sản văn hoá thế giới vào năm 1999, với hàng trăm ngôi nhà cổ có kiến trúc từ thế kỷ 17 đến thế kỷ 19 giờ không còn như xưa.
Trong làn sóng du lịch ồ ạt, Hội An đang mất dần đi sự tĩnh lặng của nó và một số ngôi nhà cổ đứng trước nguy cơ bị sửa sang để biến thành khách sạn phục vụ du khách. Biến đổi khí hậu dẫn đến mưa nhiều làm phố cổ Hội An bị ngập, các ngôi nhà cổ bị hư hại và việc sửa chữa làm mất đi tính nguyên bản của nó.
Nhưng Hội An vẫn quyến rũ du khách cũng như tôi bởi dù có bị mai một ít nhiều thì hy vọng cái hồn của phố cổ vẫn luôn tồn tại... Hồn của di sản tạo nên chính từ những con người giản dị như bà lão bán rong, cô gái vẽ mặt nạ, những người đạp xích lô... hay những mảng tường “huyền thoại” và cả những tà áo dài Việt Nam được những cô gái ngoại quốc mặc vào mang một vẻ đẹp kỳ lạ...