Mãi đến giữa năm 2016, gia đình bà Trần Thị Thu T. (trú tại chung cư Lakeside B, khu đô thị Chí Linh, phường Nguyễn An Ninh, TP. Vũng Tàu) mới gửi đơn lên cơ quan chức năng tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu tố cáo ông N.K.T. có hành vi dâm ô với con gái 6 tuổi của mình. Một tháng sau, cơ quan Cảnh sát điều tra Công an TP. Vũng Tàu đã quyết định khởi tố vụ án “dâm ô với trẻ em” xảy ra tại chung cư Lakeside nhưng chưa khởi tố bị can được do việc thu thập, đánh giá chứng cứ có nhiều khó khăn.
Chỉ đến khi các luật sư bảo vệ cho người bị hại kiên trì lên tiếng, gửi nhiều kiến nghị đến lãnh đạo các cấp, đặc biệt là ngày 12.3.2017, Chủ tịch Nước Trần Đại Quang đã yêu cầu lãnh đạo Bộ Công an, Viện kiểm sát tối cao chỉ đạo các cơ quan tư pháp, điều tra sớm làm rõ và có kết luận về vụ xâm hại trẻ em ở Vũng Tàu. Ngay sau đó, ông Lê Minh Trí - Viện trưởng Viện kiểm sát tối cao yêu cầu báo cáo, kiểm tra sự việc đã chỉ đạo Viện kiểm sát các cấp tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu yêu cầu Cơ quan cảnh sát điều tra Công an TP. Vũng Tàu ra ngay quyết định khởi tố bị can đối với ông N.K.T. về tội “dâm ô với trẻ em” theo điều 116 Bộ luật Hình sự để điều tra, xử lý theo quy định pháp luật.
Đây chỉ là một trường hợp điển hình cho thấy việc giải quyết tin báo, tố giác tội phạm, quá trình điều tra, truy tố, xét xử các tội danh liên quan đến việc xâm hại tình dục đối với trẻ em nếu không có nhận thức, chỉ đạo kiên quyết, thực thi trách nhiệm đúng đắn của người đứng đầu các cơ quan tiến hành tố tụng, cũng như có các giải pháp đồng bộ của các ngành, các cấp thì rất khó đưa ra ánh sáng những “con yêu râu xanh” đang hàng ngày reo rắc nỗi kinh hoàng cho các bé gái. Theo báo cáo của các ngành chức năng, thực tế trong 3 năm 2014 - 2016, trung bình mỗi năm khởi tố, xét xử từ 1.500 đến 1.800 vụ án và từng đó số bị can liên quan nhóm tội danh xâm hại tình dục trẻ em. Tuy nhiên, tại cuộc họp do Uỷ ban Tư pháp Quốc hội chủ trì vào ngày 27.3.2017 mới đây, nhiều đại biểu đã chỉ ra những bất cập trong pháp luật thực định và sự phối hợp giữa các cơ quan, ban ngành đã hạn chế rất nhiều đến công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm xâm hại tình dục trẻ em.
Trước hết phải kể đến trong Bộ luật Hình sự 1999 có 4 tội liên quan đến xâm hại tình dục trẻ em gồm tội hiếp dâm trẻ em, tội cưỡng dâm trẻ em, tội giao cấu với trẻ em và tội dâm ô với trẻ em. Một trong những khó khăn khi xử lý tội dâm ô với trẻ em là khó thu thập chứng cứ là dấu vết để lại trên cơ thể nạn nhân nên mặc dù có tố cáo của gia đình nhưng chưa đủ căn cứ để khởi tố. Theo báo cáo đánh giá của Uỷ ban Tư pháp Quốc hội, hầu hết các vụ xâm hại tình dục trẻ em thường không có nhân chứng trực tiếp, phụ thuộc phần lớn ở lời khai của người bị hại và sự thành khẩn khai báo của người bị tình nghi phạm tội. Tình trạng khó khăn trong thu thập chứng cứ, thời gian xác minh tin báo, tố giác tội phạm, từ đó quyết định khởi tố vụ án và bị can bị kéo dài còn do sự khác biệt trong đánh giá chứng cứ của các cơ quan tố tụng, lúng túng trong việc xác định tình trạng tổn thương, không triển khai kịp thời việc trưng cầu giám định. Mặt khác, do người bị hại là trẻ em, năng lực nhận biết còn hạn chế, tâm lý dễ bị tác động, hoảng loạn về tinh thần nên khai báo không thống nhất. Đáng lưu ý là nhận thức của người tiến hành tố tụng còn đơn giản, cứ nghĩ gia đình nạn nhân và thủ phạm tự hoà giải, thương lượng giải quyết hoặc đền bù thì coi như giải quyết xong…
Về phần mình, các cấp tòa cũng chưa có được sự hướng dẫn áp dụng thống nhất đối với các điều của Bộ luật Hình sự về xâm hại tình dục trẻ em, nhất là dấu hiệu định tội cụ thể trong tội dâm ô với trẻ em. Quy trình nghiệp vụ để thực hiện các quy định trong tố tụng nhằm phát hiện kịp thời, xử lý nghiêm minh các hành vi xâm hại tình dục trẻ em cũng chưa có được sự thống nhất giữa các ngành pháp luật và cơ quan chức năng, nhất là biện pháp phòng ngừa mang tính nghiệp vụ chuyên biệt của cơ quan công an. Vai trò của các tổ chức, đoàn thể, nhất là sự hỗ trợ về mặt pháp lý của luật sư còn nhiều hạn chế do những vướng mắc trong pháp luật về sự tham gia của luật sư trong giai đoạn xử lý tin báo, tố giác tội phạm, chưa có sự phối hợp chặt chẽ với các cơ quan pháp luật. Điều này dẫn đến thực tế là chỉ đến khi báo chí lên tiếng, luật sư kiến nghị, lãnh đạo Nhà nước, cơ quan pháp luật tối cao lên tiếng, bộ máy tố tụng mới được khởi động, vào cuộc quyết liệt hơn…
Chúng tôi chia sẻ và đồng thuận với những đề xuất mang tính toàn diện, căn cơ của bà Lê Thị Nga - Chủ nhiệm Uỷ ban Tư pháp Quốc hội trong việc nâng cao hiệu quả và sự vào cuộc của toàn bộ hệ thống chính trị - pháp lý trong cuộc đấu tranh phòng, chống tội phạm xâm hại tình dục trẻ em, đặc biệt là nâng cao trách nhiệm của các cơ quan, tổ chức, đoàn thể được quy định trong chương VI Luật Trẻ em. Bên cạnh việc hướng dẫn, áp dụng thống nhất pháp luật, xử lý kịp thời tin báo, tố giác tội phạm, một trong những biện pháp cơ bản là nâng cao nhận thức của những người có trách nhiệm, áp dụng các biện pháp nghiệp vụ chuyên biệt đối với loại tội phạm này. Rất cần tổ chức, sớm đưa vào hoạt động của Tòa Gia đình và người chưa thành niên ở các địa phương để bảo đảm xét xử thân thiện đối với người bị hại cũng như trẻ em là người phạm tội.