Ảnh của Nguyễn Hữu Bảo không đơn giản, không phải vì kỹ thuật phức tạp, mà giống với những bức ảnh trong các triển lãm trước (“Ký ức làng” hay “Ký ức phố”) của anh, nó mang đến cho người xem những câu chuyện nhiều suy ngẫm mà không phải ai cũng dễ đọc ra.
Trong lời bạt của cuốn sách, nhà sử học Dương Trung Quốc đã viết: Có thể nói cuốn sách là “tập truyện ngắn về Hà Nội”. “Tập truyện” gần 200 trang với 198 bức ảnh chân thực nhất kể 10 câu chuyện biết nói về Hà Nội: Câu chuyện quanh Hồ Gươm, cầu Long Biên, “xứ hoa đào”, Hà “Lội”, ma nơ canh, nhà cổ, giấc mơ trưa, người thành phố, giá trị tinh thần và muôn màu cuộc sống. Nhưng câu chuyện hình ảnh ở đây không phải là truyện văn học, không chờ qua mào đầu và hết đoạn kết để biết kết thúc, mỗi bức ảnh đã đủ sức kể chuyện của chính mình. Vì vậy, cũng có thể nói, cuốn sách ảnh là tập truyện mà mỗi truyện trong đó lại là câu chuyện đa câu chuyện.
Phố Lương Ngọc Quyến. |
Có những câu chuyện xảy ra đã lâu (37 năm trước) mà tưởng như mới ngày hôm qua. Có câu chuyện mới ngày hôm qua mà tưởng như đã từ lâu lắm. Nguyễn Hữu Bảo kể chuyện có duyên vì anh biết cách làm “nhòe” khoảng thời gian mà sự vật và con người hiện hữu thông qua chất liệu ảnh đen trắng. Anh quan niệm “sự chân thực là điều kiện hàng đầu trong nhiếp ảnh” và ảnh đen trắng với sắc độ đậm - nhạt có sức mạnh diễn tả hiện thực một cách siêu thực nhất tâm tưởng con người, diễn tả đúng nhất về chân dung tinh thần anh. Một người sinh ra ở Hà Nội, “tập đi ở Hồ Gươm” - nói như nhà thơ dân gian Bảo Sinh, anh là: “Con người Hà Nội của Hà Nội”.
Cô bán muối - sáng mùng Một Tết. |
Người Hà Nội xưa thích bát phố (đi chơi lang thang trong phố theo lối “vô sở cầu”). Gần nhất với phố Hàng Đào nơi anh sống là Hồ Gươm, là 36 phố phường, đi về phía Tây là xứ đào Nhật Tân nức tiếng, sang phía Đông thì qua cầu Long Biên bắc trên sông Hồng. Chụp về những địa điểm ấy cũng là trên hành trình bát phố của nhà nhiếp ảnh. Anh không lên ý tưởng, không đặt ra những tình huống, kịch bản để thực hiện. Chính Hà Nội - một cái làng va đập cả hai nền văn hóa Đông - Tây đã là một hiện thực sinh động, gặp một “siêu thực” trong tâm hồn một người Hà Nội tạo thành những tư liệu hình ảnh đáng quý.
Hữu Bảo kỹ và nhạy cảm trong nhiếp ảnh. Anh thấy rất nhanh câu chuyện khi chúng xảy ra trước mắt mình để không bỏ lỡ thời cơ bấm máy, nhưng anh cũng rất kiên nhẫn chờ khoảnh khắc để ghi chúng lại một cách đắt giá nhất. Lấy ví dụ bức ảnh “Đường đua” anh chụp năm 2010: Ghi lại cảnh một đoàn đua xe đạp ở Bờ Hồ. Đoàn đua chuyển động rất nhanh (người và xe nhòe mờ) nhưng nền bức ảnh là cây đa cổ thụ phía sau được lấy nét rõ. Đáng nói hơn, bên cạnh gốc đa đó là một bến chờ xe buýt có in hình cô gái đang ngủ. Nguyễn Hữu Bảo đã chờ đến vòng đua thứ tư để chụp được bức ảnh tốt nhất (sau vài lần bấm máy ở vòng đua đầu không ghi được đầy đủ các chi tiết đó) để tăng tương quan tĩnh và động trong ảnh. Hoặc trong câu chuyện về manơcanh - “một sản phẩm mà hình hài giống con người nhất”, anh đã dẫn: “Sẽ là khôi hài nếu so sánh cách ứng xử của người đời - những manơcanh dương (người mẫu thời trang) với người mẫu thời trang âm (ma nơ canh). Nhưng không ít những hình ảnh manơcanh trên đường phố khiến ta rất dễ liên tưởng tới một kiếp người…”. Với anh, cái cách con người đối xử với manơcanh (như đã ghi trong ảnh), dù vô tình hay hữu ý, trưng dụng hay vứt bỏ, đó không còn nằm ở vật có tên gọi manơcanh nữa, đó là văn hóa của con người…
Nhưng chuyện Hồ Gươm, chuyện cầu Long Biên, chuyện hoa đào Nhật Tân hay chuyện nhà cổ, chuyện Hà “Lội”, chuyện manơcanh… với Nguyễn Hữu Bảo không phải để “nói ca ngợi hay phê phán” mà chỉ là “cái Hà Nội của tôi nó thế. Nó như hơi thở, có lúc khỏe mạnh, có lúc ốm đau”. Anh “kể” bằng nhiều cung bậc: Thâm trầm, hóm hỉnh, suy tư… với đủ chuyện vui, chuyện buồn, chuyện khôi hài… song “người đọc” không thấy “rát mặt” hay cáu gắt. Dù chính anh cũng có lúc “không dám nhận mình là Hà Nội”, vì xấu hổ với kiểu “phở quát, cháo chửi”, với những mặt trái của nó.
Phố Hàng Đào. |
Đời sống luôn vận hành với những tương phản, đối nghịch tự thân. Nguyễn Hữu Bảo là người kể chuyện rất tinh khi luôn đặt những tương phản, đối nghịch đó trong ảnh của mình, ở trong Hà Nội. Giữa già và trẻ, tĩnh và động, trên và dưới, mới và cũ, xưa và nay… người xem cũng đủ cảm nhận Hà Nội đổi thay. Hữu Bảo hiểu quy luật tất yếu này, nhưng với anh, dù thế nào thì “tôi yêu nó, vì nó là hơi thở của tôi”.
Có lẽ cũng hiểu được điều ấy, nhà văn Nguyễn Huy Thiệp đã tặng chữ “Hà Nội yêu dấu” cho nhà nhiếp ảnh thay vì cái tên ban đầu “Thành Đô yêu dấu” anh đề xuất. Trong lời mở đầu cuốn sách, hai lần nhà văn nhắc lại chữ “yêu dấu” một cách thiết tha và đầy độ lượng: “Chúng ta phải trở về với mặt đất của chúng ta với các hệ lụy của nó, an nhiên và không ảo tưởng. Chúng ta hãy bằng lòng với những thứ chúng ta đang có ở trong tầm tay. Chúng ta hãy yêu dấu nó, yêu dấu Thủ đô Hà Nội như yêu dấu chính những người thân ruột thịt của chúng ta”. Người đọc có lẽ cũng chia sẻ với nhà văn và nhà nhiếp ảnh mà càng trân quý “Hà Nội yêu dấu”, cho dù khi xuất hiện trên tay, cuốn sách được mang cái tên là “Hà Nội dấu yêu. Chúng ta cùng chờ “Hà Nội yêu dấu” quyển 2 tiếp nối, với tình yêu thủy chung “hơi thở - Hà Nội” này.