Tôi không biết ngày giờ sinh của ông, vậy mà tôi biết ông được quẻ Thủy Trạch Tiết, chủ mệnh hào 5, mảng đời sau (hậu vận) của ông được quẻ Trạch Địa Tụy, chủ mệnh hào 2. Trò chuyện với ông, ông thừa nhận đến từng chi tiết. Tôi quen ông chỉ trong một thời gian ngắn, khi mái đầu đã điểm bạc, nhưng ông để lại trong tôi một dấu ấn son không bao giờ phai nhạt. Chúng tôi vẫn gọi ông là thầy Trương. Người mảnh khảnh, đôi mắt sáng, đi lại nhanh nhẹn, hay cười đùa, và hay lẩy Kiều. Cái năm tôi gặp ông thì ông đã 78 tuổi, đang là Tổng biên tập bộ Từ điển Bách khoa đầu tiên của Việt Nam. Có nghĩa là với bộ từ điển kho tàng tri thức Việt này ông phải đọc hết khoảng bốn vạn mục từ, với lời giải không sót một dấu phẩy nào, chiếu vào đó cái nhìn tổng thể của người phụ trách cao nhất. Thế nhưng một hôm ông rủ tôi đi chơi, lên vùng núi Tản Viên Sơn, tôi thấy mình đứng sững trước một cái biển đề, tiếng Việt và tiếng Pháp: Làng sinh thái người Dao. Hóa ra Nguyễn Văn Trương còn là Viện trưởng Viện nghiên cứu Kinh tế Sinh thái. Một viện khoa học “dân lập”, có giấy phép hẳn hoi, nhưng không hưởng lương và mọi chi phí của Nhà nước. Cách hoạt động của Hội là tổ chức các nhà sinh thái học tự nguyện tham gia các đề tài nghiên cứu nhằm cải thiện môi trường sống và tạo ra các làng mẫu gọi là Làng sinh thái. Viện chủ trương giúp dân xây dựng các làng “sinh thái” ở 10 vùng thiên nhiên khắc nghiệt khác nhau, biến những vùng đồi hoang trọc, hoặc nước úng ngập quanh năm, hoặc cát phủ đang sa mạc hóa, hoặc nước ngọt bị lợ hóa... nghĩa là những vùng chết, dân bỏ làng đi, hoặc cố ở lại thì cũng đang sống dở chết dở, thành những làng đúng nghĩa của nó, sống được và sống tốt. Muốn duy trì những hoạt động như thế tất nhiên phải có tiền và các cơ sở vật chất tối thiểu. Nguồn tiền duy nhất là do các tổ chức nghiên cứu về sinh thái học quốc tế hợp tác và tài trợ, miễn là những kết quả nghiên cứu của Viện giúp ích và nằm trong hệ thống đề tài nghiên cứu của họ. Ví dụ đề tài cải tạo môi trường các vùng cát bờ biển miền Trung chính là nằm trong hệ thống đề tài chống sa mạc hóa của một tổ chức quốc tế. Để làm được những việc khó khăn và cao cả của mình, Viện đã tập hợp được các nhà khoa học có uy tín thuộc các ngành có liên quan đến sinh thái học. Họ nhận các đề tài nghiên cứu của Viện nhưng không nhận thù lao, trợ cấp. Cũng như thầy Trương làm việc hết mình cho Viện nhưng không lĩnh lương của Viện. Viện có ôtô (do một tổ chức quốc tế tặng), nhưng hàng ngày thầy đến trụ sở Viện bằng xe tắcxi hoặc xe ôm. Các địa điểm thực nghiệm khoa học đều ở xa Hà Nội, có nơi xa không dưới 500 kilômét, tôi không biết thầy Trương - Viện trưởng, đã về các làng ấy bao nhiêu lần nhưng mỗi lần về tôi thấy bà con chào đón ông thân thiết như người làng. Trong tưởng tượng của tôi, chỉ có những bản Dao với những ngôi nhà heo hút lưng chừng núi cao. Nên một cái làng Dao như thế này tôi chưa từng hình dung ra, ở khoảng giữa ngôi đền Hạ và đền Trung núi Tản, cách bờ sông Đà vài cây số. Chúng tôi vào nhà ông Dương Trung Thọ, già làng. Ông có căn nhà ngói 5 gian, có nhà bếp và chuồng lợn, lợn trong chuồng và lợn thả rông hơn chục con, có vườn quy hoạch vuông vắn, trong vườn có bởi loại cây thấp quả to, có na, nhãn, vải thiều, dưới chân vườn là những khoảnh đất bậc thang có bờ bao bằng dứa và sả, trồng khoai, lạc, đỗ, bí đỏ... Bao bọc khuôn vườn là những hàng cây tràm hoa vàng với những chòm lá xanh mướt, vừa chắn gió và chống xói mòn, vừa tạo nguồn đạm cho vườn quả. Có vườn quả, có hương hoa, là có ong. Nhà ông Thọ có hàng chục đõ ong, và chỉ trong chốc lát đã thấy ông pha rượu ong thết khách Hà Nội. Nói với anh chị em trong Viện, thầy Trương thường quen miệng gọi là Làng Ta, ông hiện có hơn mười cái “làng ta” như thế. Dân làng Dao nói vui: Chúng tôi coi thầy Trương đây như già làng rồi, chỉ tội thầy không biết cúng thôi. Tôi đã đến vùng cát di động Hải Thủy thấy bà con đào được ao nuôi cá ở dưới cát, thì ra dưới cát hai mét có nước ngầm, và nếu đào xuống một mét thì sẽ tạo được những cái vườn có thể hút nước lên theo đường “mao dẫn” làm ẩm mát cây cối và cho ta những vườn hoa màu xanh tốt. Nhân dân ở đây gọi vui là vườn âm phủ. Tôi đã thấy ông Bu-lơ, một chuyên gia người Canada ngắm rất lâu hàng cây đước tái sinh ở đầm nước lợ Xuân Lâm và bảo rằng đó là lời xin lỗi với thiên nhiên, và thiên nhiên đã khoan dung tha thứ, đầm hoang lại thành đầm cò trắng bay về. Bu-lơ gọi ông già mảnh khảnh là người khổng lồ. Nhưng tôi còn biết thầy Trương là một nhà Thủy Trạch Tiết khổng lồ. Tiết là tiết chế, điều tiết, giữ chừng mực. Giời đất đã xui khiến ông trở thành một nhà khoa học tiết chế, giữ chừng mực cho thiên nhiên. Và với quẻ Trạch Địa Tụy (Tụy là Tụ), nửa cuộc đời sau của ông đã thực sự tụ họp được con người đứng dưới ngọn cờ tên là Làng Ta, Làng sinh thái. Thầy Trương mất năm 2008. Lúc ấy tôi đang ở TP. Hồ Chí Minh, tôi lặng lẽ thắp một nén hương tưởng nhớ thầy.
Nhớ thầy Trương
Xuân Cang |