Dịch bệnh COVID-19 đã và đang ảnh hưởng trực tiếp và gián tiếp tiêu cực đến hoạt động sản xuất kinh doanh của các ngành nghề, lĩnh vực, đặc biệt là du lịch, vận tải, bán lẻ, ngoại thương, đầu tư và cả tài chính - ngân hàng. Nhiều doanh nghiệp bị thu hẹp các hoạt động sản xuất, kinh doanh, nhất là trong các ngành dệt may và da giày, ngành nông sản, dịch vụ du lịch và bán lẻ… dẫn đến việc làm của một bộ phận người lao động bị cắt.
Theo Bảo hiểm xã hội Việt Nam, trong quý I.2020, số người được chi trả chế độ trợ cấp thất nghiệp ước thực hiện là 378.178 người, tăng khoảng 9,11% so với cùng kỳ năm 2019 (346.582 người) với số tiền được chi trả ước thực hiện là 2.119 tỷ đồng. Số người được chi trả hỗ trợ học nghề ước thực hiện là 8.160 người, tăng khoảng 10,1% so với cùng kỳ năm 2019 (7.409 người) với số tiền chi trả ước thực hiện là 18 tỷ đồng.
Một trong những vấn đề mà nhiều người quan tâm là, sau khi nghỉ việc người lao động sẽ được hưởng bảo hiểm thất nghiệp, nhưng vì nhiều lý do (như bị cách ly y tế hoặc bị nhiễm SARS-CoV-2 phải đi điều trị), không đến nhận kịp thời thì có bị mất khoản tiền này không?
Về vấn đề này, Khoản 6, Điều 18 Nghị định số 28/2015/NĐ-CP của Chính phủ quy định: “Sau thời hạn 3 tháng kể từ ngày người lao động hết thời hạn hưởng trợ cấp thất nghiệp theo Quyết định hưởng trợ cấp thất nghiệp nhưng không đến nhận tiền trợ cấp và không thông báo bằng văn bản với cơ quan bảo hiểm thất nghiệp nơi đang hưởng thì người lao động đó được xác định là không có nhu cầu hưởng trợ cấp thất nghiệp.
Thời gian đóng bảo hiểm thất nghiệp tương ứng với số tiền trợ cấp thất nghiệp mà người lao động không đến nhận được bảo lưu làm căn cứ để tính thời gian hưởng trợ cấp thất nghiệp cho lần hưởng tiếp theo khi đủ điều kiện hưởng theo quy định”.
Khoản 1, Điều 9, Thông tư số 28/2015/TT-BLĐTBXH của Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội cũng xác định thời gian người lao động được bảo lưu như sau: Thời gian đóng bảo hiểm thất nghiệp được bảo lưu bằng tổng thời gian đóng bảo hiểm thất nghiệp trừ đi thời gian đóng bảo hiểm thất nghiệp đã hưởng trợ cấp thất nghiệp.
Như vậy, sau 3 tháng, người lao động đủ điều kiện không nộp hồ sơ để hưởng trợ cấp thất nghiệp hoặc đã nhận quyết định hưởng trợ cấp thất nghiệp nhưng không đến nhận trợ cấp thất nghiệp thì thời gian đóng bảo hiểm thất nghiệp của người lao động sẽ được bảo lưu để tính vào lần hưởng trợ cấp thất nghiệp tiếp theo chứ không bị mất đi.
Để tạo điều kiện cho những trường hợp bị thất nghiệp đang chờ nhận trợ cấp thất nghiệp phải đi cách ly y tế hoặc bị nhiễm COVID-19 không thể đến nhận tiền trợ cấp thất nghiệp theo thời hạn quy định (chỉ ảnh hưởng đối với những trường hợp không đến nhận tiền nhưng gần quá thời hạn 3 tháng kể từ ngày hết hạn hưởng ghi trên quyết định), hiện Bảo hiểm xã hội Việt Nam đang đề xuất cơ quan chức năng cho phép lùi thêm thời gian nhận tiền trợ cấp thất nghiệp bằng thời gian cách ly y tế hoặc điều trị do nhiễm SARS-CoV-2 để đảm bảo quyền lợi cho người lao động.
Theo quy định của Luật Việc làm, trong thời gian chưa tìm được việc làm mới, người lao động thất nghiệp sẽ được hưởng các chế độ gồm: Trợ cấp thất nghiệp hàng tháng khi đáp ứng đủ các điều kiện theo quy định với mức hưởng trợ cấp hàng tháng bằng 60% mức bình quân tiền lương tháng đóng bảo hiểm thất nghiệp của 6 tháng liền kề trước khi nghỉ việc (có khống chế mức hưởng tối đa), thời gian hưởng phụ thuộc vào thời gian tham gia bảo hiểm thất nghiệp, nhưng tối đa không quá 12 tháng.
Bên cạnh đó, người lao động được hỗ trợ tư vấn, giới thiệu việc làm miễn phí; được hỗ trợ học nghề khi đáp ứng đủ các điều kiện theo quy định với mức hỗ trợ tối đa 1 triệu đồng/người/tháng. Mức hỗ trợ cụ thể được tính theo tháng, thời gian học thực tế của từng nghề hoặc từng khóa học nhưng không quá 6 tháng.
Ngoài ra, đơn vị sử dụng lao động do dịch bệnh mà buộc phải thay đổi cơ cấu hoặc công nghệ sản xuất, kinh doanh thì được hỗ trợ kinh phí đào tạo bồi dưỡng nâng cao trình độ kỹ năng nghề để duy trì việc làm cho người lao động khi đáp ứng đủ các điều kiện theo quy định với mức hỗ trợ tối đa 1 triệu đồng/người/tháng. Mức hỗ trợ cụ thể được tính theo tháng, thời gian học thực tế của từng nghề hoặc từng khóa học nhưng không quá 6 tháng.