Vì sao cần có hợp đồng dầu khí bằng tiếng Anh?
Từ khi Dự thảo Luật Dầu khí (sửa đổi) được đưa ra lấy ý kiến góp ý, chỉnh sửa, đã có rất nhiều ý kiến chuyên gia, doanh nghiệp xoay quanh ngôn ngữ trong hợp đồng dầu khí.
Các chuyên gia cho rằng, dự thảo hiện quy định ngôn ngữ sử dụng trong hợp đồng dầu khí là tiếng Việt trong trường hợp tại thời điểm ký hợp đồng dầu khí, mà nhà thầu được lựa chọn là nhà thầu Việt Nam là chưa phù hợp.
Ông Nguyễn Minh - Trưởng ban pháp lý và thương mại Eni Việt Nam cho rằng, nhà đầu tư nước ngoài muốn có hai ngôn ngữ khi ký kết hợp đồng dầu khí. Bởi nếu hợp đồng dầu khí giữa hai công ty Việt Nam ký kết với nhau là ngôn ngữ tiếng Việt nhưng đến khi công ty nước ngoài muốn tham gia vào thì lúc đó phải chỉnh sửa lại rất khó khăn.
Còn nếu công ty nước ngoài muốn tham gia vào hợp đồng dầu khí mà hợp đồng chỉ có ngôn ngữ tiếng Việt, hoặc được dịch sang tiếng Anh mà không được các bên ký thì họ rất lo ngại.
Đồng quan điểm trên, ông Vương Minh Đức - Giám đốc Kỹ thuật và An toàn sức khỏe môi trường Công ty TNHH Thăm dò và Khai thác Dầu khí ExxonMobil Vietnam cho rằng, hoạt động của ngành dầu khí trên thế giới xoay quanh ngôn ngữ tiếng Anh.
Trong đó, có rất nhiều từ ngữ chuyên ngành có thể sẽ không thể giải nghĩa một cách chính xác trong tiếng Việt. Hợp đồng dầu khí được ký kết ngay từ ban đầu bằng tiếng Anh là rất cần thiết, điều này cũng đã trở thành một thông lệ quốc tế, là một điểm tạo thuận lợi thu hút đầu tư nước ngoài, nếu không thì đây sẽ trở thành một rào cản mới trong thu hút đầu tư.
Thực tế, đặc thù của hoạt động dầu khí là mang tính quốc tế cao. Ngành dầu khí nước ta vẫn sử dụng ngôn ngữ trong hợp đồng dầu khí bằng tiếng Việt và tiếng Anh; điều đó không có vướng mắc, khó khăn gì.
Tuy nhiên dự thảo Luật dầu khí (sửa đổi) quy định chỉ sử dụng bản tiếng Việt như trên có thể coi là một điểm đi lùi trong cơ chế chính sách, cũng như không phù hợp với việc xây dựng hệ thống pháp luật, không cải thiện môi trường đầu tư trong lĩnh vực này.
Do đó, các chuyên gia cho rằng tại thời điểm ký kết hợp đồng dầu khí nên được ký kết bằng tiếng nước ngoài thông dụng (thường là tiếng Anh) ngay từ thời điểm ký kết hợp đồng mà không phụ thuộc vào quốc tịch của nhà thầu tại thời điểm ký hợp đồng.
Tránh chồng chéo, đảm bảo tính khả thi và phù hợp với thực tiễn
Bên cạnh đó, nhằm giải quyết xung đột, chồng chéo với các luật liên quan thì việc bổ sung về quy trình thực hiện chuyển nhượng quyền lợi tham gia trong trường hợp Petrovietnam/doanh nghiệp 100% vốn của Petrovietnam là Bên chuyển nhượng sẽ được thực hiện theo Luật Dầu khí là rất cần thiết.
Bởi thực tế triển khai việc chuyển nhượng này cho thấy, việc quy định nội dung này là không phù hợp vì đặc điểm của “tài sản dầu khí”. Bởi cần phải tổ chức chào hàng cạnh tranh dựa trên kết quả thẩm định của một tổ chức độc lập về giá trị khởi điểm của tài sản.
Thực tế, không có tổ chức nào có thể định giá được tài sản dầu khí này. Thứ hai, việc thuê các tổ chức thẩm định giá trị tài sản chào bán và tổ chức chào hàng cạnh tranh sẽ khó tránh khỏi việc không đảm bảo các yếu tố về quốc phòng, an ninh.
Ngoài ra, với quy định liên quan đến quản lý và sử dụng vốn nhà nước trong hoạt động dầu khí, thì dự thảo luật chỉ có quy định thẩm quyền của Hội đồng thành viên (HĐTV) và Ủy ban Quản lý vốn nhà nước (UBQLVNN) tại doanh nghiệp liên quan đến việc sử dụng vốn của PVN và công ty 100% vốn mà PVN tham gia.
Tức là chỉ giao toàn bộ việc phê duyệt sử dụng vốn PVN và các đơn vị thành viên cho HĐTV của tập đoàn, cũng như trách nhiệm của UBQLVNN chỉ gửi ý kiến về việc sử dụng vốn của PVN để Bộ Công Thương xem xét thẩm định.
Một số chuyên gia nói rằng, quy định trên không rõ về trình tự, thủ tục, hồ sơ để HĐTV Petrovietnam phê duyệt trong trường hợp Petrovietnam/DN 100% vốn của Petrovietnam thực hiện hoạt động dầu khí theo các giai đoạn của hợp đồng phân chia sản phẩm (PSC) và dự án dầu khí; và không quy định rõ về các bước, trình tự để UBQLVNN tham gia ý kiến về việc sử dụng vốn của Petrovietnam tại các dự án, hoạt động dầu khí.
Nếu trong trường hợp Ủy ban Quản lý vốn nhà nước có ý kiến "không đồng ý" hoặc "việc sử dụng vốn của PVN cần xem xét lại" thì Bộ Công Thương có thẩm định và quyết định trình Thủ tướng Chính phủ phê duyệt được không?.
Ngoài ra, khi triển khai dự án thì PVN vẫn phải thực hiện hai quy trình liên quan tới hồ sơ kế hoạch đại cương phát triển mỏ, khai thác sớm mỏ và phát triển mỏ… đến hồ sơ phê duyệt phương án vốn. PVN cũng phải thực hiện phê duyệt riêng nên có thể dẫn tới kéo dài và chồng chéo trong thực hiện thủ tục.