Theo sách Ô Châu cận lục của tiến sĩ Dương Văn An viết năm 1553, vào đầu thế kỉ 17, tức dưới thời chúa Nguyễn, làng nghề đúc đồng này thuộc địa phận làng Dương Xuân, tổng Vĩ Dạ, huyện Hương Trà, phủ Triệu Phong. Đến thời các vua nhà Nguyễn, cụ thể là dưới triều Tự Đức (1847-1883) làng Dương Xuân được tách thành 2 làng là Dương Xuân Thượng và Dương Xuân Hạ. Nay làng đúc đồng Huế nằm trên địa bàn phường Phường Đúc và một phần của phường Thủy Xuân, Thành phố Huế.
1. Nói về xuất xứ cũng như cái tên của làng nghề này ngẫm cũng có đôi điều thú vị. Bởi theo như gia phả của dòng họ Nguyễn ở làng đúc đồng Phường Đúc thì thủy tổ của nghề đúc đồng nơi đây là cụ Nguyễn Văn Lương, quê làng Đồng Xá, Siêu Loại (tỉnh Bắc Ninh ngày nay).
Vào thế kỉ 17, khi chọn Huế làm nơi xây dựng cơ nghiệp, các chúa Nguyễn đã trưng tập thợ khéo cả nước, trong đó có thợ đúc đồng về đây phục vụ việc xây dựng các tư dinh, phủ đệ, đúc khí giới, tiền xu và sản xuất vật dụng phục vụ nhu cầu của phủ chúa.
Thời bấy giờ, dân làm nghề đúc từ các nơi kéo về tập trung sinh sống, hành nghề thành hội thành phường ở làng Dương Xuân nên dân trong vùng quen gọi là “Phường Đúc”, tức phường thợ đúc, rồi lâu dần thành tên gọi.
Thời ấy, Phường Đúc có 5 xóm nghề gồm: Trường Đồng, Kinh Nhơn, Bổn Bộ, Giang Dinh, Giang Tiền. Trong đó, Kinh Nhơn và Bổn Bộ là hai xóm có nghề đúc đồng lớn nhất và danh tiếng nhất. Từ đó về sau đến đời các vua nhà Nguyễn, nghề đúc đồng ở Phường Đúc càng có cơ hội phát triển mạnh thêm.
Có thể nói, thời nhà Nguyễn nghề đúc đồng ở Huế được xem là phát triển rực rỡ và huy hoàng nhất. Rất nhiều sản phẩm của người thợ đúc đồng Phường Đúc thời ấy nay đã trở thành những kiệt tác di sản trong kho tàng văn hóa vật thể của kinh thành Huế, trong đó có những kiệt tác đã được nhà nước công nhận là Bảo vật Quốc gia như: Bộ vạc đồng thời chúa Nguyễn được đúc từ năm 1659 đến 1684, quả đại hồng chung chùa Thiên Mụ được đúc vào năm 1710, bộ Cửu đỉnh (9 đỉnh lớn) đặt trước Thế Miếu được đúc từ năm 1835 đến 1837 và bộ cửu vị thần công (9 khẩu đại pháo) đặt trước Ngọ Môn được đúc từ năm 1803 đến 1804.
2. Sản phẩm đúc đồng xứ Huế nổi tiếng tinh xảo và bền đẹp bất chấp thời gian. Ví như bộ cửu đỉnh đúc vào năm 1835 dưới triều vua Minh Mạng được giới nghiên cứu đánh giá không chỉ là biểu tượng uy quyền của nhà vua mà còn được ví như một bộ "Dư địa chí”, bộ “Bách khoa thư” về nước Việt Nam hồi cuối thế kỉ 19 - đầu thế kỉ 20.
Tổng thể 162 hình chạm khắc tinh xảo trên cửu đỉnh mô tả các vì tinh tú, hiện tượng thiên nhiên và các thắng cảnh, sản vật tiêu biểu của nước Việt ta thời ấy như sông núi, biển đảo, cỏ cây, chim muông, hoa lá, xe cộ, thuyền bè, vũ khí... hòa quyện với nhau tạo nên một bức tranh thiên nhiên, sông núi, đất trời Việt Nam gấm vóc, tươi đẹp, hùng cường.
Điều đó khiến cho người đời sau không những trầm trồ thán phục về tài nghệ của các bậc nghệ nhân xưa mà còn tự hào về tầm nhìn xa trông rộng của các bậc tiền nhân trong việc trao truyền các giá trị sử liệu cho hậu thế.
Ngày nay, nghề đúc đồng truyền thống ở Huế đã bước sang một giai đoạn phát triển mới với kĩ thuật và công nghệ cao hơn. Các nghệ nhân đúc đồng ở phường Phường Đúc hiện nay đã cho thấy tay nghề và sự tài hoa của họ không hề thua kém các bậc cha ông đi trước. Nhiều lớp nghệ nhân ra đời và trở nên nổi tiếng khắp trong Nam ngoài Bắc và cả ở nước ngoài như các nghệ nhân Nguyễn Văn Sính, Nguyễn Văn Viện, Nguyễn Văn Thuận, Nguyễn Văn Đệ, Nguyễn Văn Trai, Nguyễn Văn Tuệ, Nguyễn Văn Niệm, Lê Văn Sơn...
3. Ngoài các sản phẩm truyền thống nổi tiếng xưa nay như chuông, tượng, lư, đèn... các nghệ nhân Phường Đúc hiện nay đã nghiên cứu đúc thành công nhiều sản phẩm độc đáo, có giá trị nghệ thuật lẫn kinh tế cao. Điển hình như tượng danh tướng Trần Hưng Đạo cao 10,2m, nặng 21,6 tấn đặt tại công viên Vị Hoàng, TP.Nam Định; tượng Như Lai cao 4,3m đặt tại chùa Kim Thành, TP.Plây Cu, tỉnh Gia Lai; trống đồng đặt tại Bảo tàng Quang Trung (Bình Định)...
Đặc biệt, nhân kỉ niệm 1.000 năm Thăng Long - Hà Nội, nghệ nhân Nguyễn Văn Sính và các học trò đã lập kỉ lục khi đúc thành công quả đại hồng chung cho chùa Bái Đính ở Ninh Bình với kích cỡ khổng lồ cao 5,5m, đường kính 3,7m, nặng 36 tấn, được xem là quả chuông lớn nhất Đông Nam Á.
Hiện nay, ở phường Phường Đúc mộ và nhà thờ ông tổ nghề đúc đồng đã được nhà nước xếp hạng Di tích Lịch sử Văn hóa cấp Quốc gia. Toàn phường hiện có khoảng 60 hộ làm nghề đúc đồng, thu hút chừng 300 lao động làm việc thường xuyên, sản phẩm không chỉ có chỗ đứng vững chắc ở thị trường trong nước mà đã xuất đi được nhiều nước trên thế giới như Mỹ, Pháp, Nhật Bản, Trung Quốc, Ấn Độ, Nepal, đem lại tổng doanh thu gần 10 tỉ đồng/năm (khoảng hơn 400.000 USD).
Trải qua hơn 4 thế kỷ hình thành và phát triển cùng những biến cố thăng trầm của lịch sử mảnh đất Cố đô, những người thợ đúc đồng tài hoa xứ Huế vẫn bền bỉ giữ lửa nghề cho đến hôm nay, làm rạng danh một làng nghề truyền thống để tiếp tục truyền đời cho hậu thế mai sau.