Qua 6 năm thực hiện các nội dung theo quy hoạch này, kết quả đạt được còn khá khiêm tốn; trong đó xây mới tượng, tượng đài: 0/5 công trình (đạt 0%); trùng tu, tôn tạo, chuyển đổi chất liệu tượng, tượng đài: 3/15 công trình (đạt 20%); xây dựng mới bia: 4/49 công trình (đạt 8,16%); trùng tu, tôn tạo, mở rộng di tích lịch sử văn hóa: 9/20 công trình (đạt 45%); xây dựng, mở rộng, trùng tu đền thờ danh nhân: 5/7 công trình (đạt 71,43%); lập hồ sơ công nhận di tích lịch sử văn hóa: 11/24 di tích (đạt 45,83%)...
Thế nhưng, điều đáng nói là qua khảo sát một số công trình bia, tượng, tượng đài xây dựng sau năm 2012 cho thấy còn bộc lộ nhiều hạn chế mang tính phổ quát: Tác giả thể hiện phác thảo, thi công phần mỹ thuật không có trình độ chuyên môn lĩnh vực điêu khắc; tượng nhân vật thể hiện sơ sài, biểu cảm trên gương mặt, phục trang không phù hợp với tinh thần của danh nhân, sai tỉ lệ cơ thể học, tư thế nhân vật không thể hiện đúng với thực tế; nhân vật trong phù điêu có hình dáng không bình thường, đường nét, mảng không mang ngôn ngữ điêu khắc, thể hiện các mảng xa gần và các chi tiết không hợp lý, người thực hiện chưa am hiểu nguyên lý, kiến thức về giải phẫu cơ thể...
Theo UBND tỉnh Bến Tre, một số công trình còn những hạn chế khác, như: Bia chiến thắng nhưng có đặt lư hương để thắp nhang tưởng niệm; bia có hình tháp nhọn lại nằm trong khu vực có nhiều mô nên bị nhầm tưởng là ngôi mộ; phù điêu có màu sắc chưa phù hợp làm giảm giá trị nội dung; không thể hiện bất cứ thông tin nào về sự kiện...
Những hạn chế nêu như trên cho thấy có “lỗ hỗng” về kiến thức chuyên môn; nhất là lĩnh vực mỹ thuật. Có thể thấy, lẽ ra đã có thể không xảy ra các “sự cố” như nêu trên nếu như trong quá trình thực hiện có sự phối hợp chặt chẽ, kết nối thông tin tốt giữa địa phương với các cơ quan quản lý nhà nước về văn hóa, với các cơ quan và đơn vị có chuyên môn về mỹ thuật... Đó là vấn đề tỉnh Bến Tre cần phải giải quyết rốt ráo khi tiếp tục thực hiện các nội dung theo quy hoạch đề ra trong Nghị quyết số 12/2011/NQ-HĐND.